Rượu vang Mỹ Opus One 2017 được ủ 18 tháng trong thùng gỗ sồi mới của Pháp tiếp tục phát triển 15 tháng trong chai cho đến khi phát hành vào ngày 01 tháng 10 mỗi năm.
Nhà sản xuất : Baron Philippe de Rothschild và Robert Mondavi
Vùng : Napa Valley
Giống nho : Cabernet Sauvignon 80%, Petit Verdot 9%, Cabernet Franc 5%%, Merlot 5%, Malbec 1%
Nồng độ : 14,5%
Niên vụ : 2017
Thể tích : 750ml
Giới thiệu về rượu vang Mỹ Opus One
Rượu vang Mỹ Opus One 2017 được ủ 18 tháng trong thùng gỗ sồi mới của Pháp tiếp tục phát triển 15 tháng trong chai cho đến khi phát hành vào ngày 01 tháng 10 mỗi năm.
Opus One có màu đỏ lựu đậm cùng hương thơm vô cùng tươi mát, có tông màu của trái cây đỏ tươi, lá nguyệt quế và quả lý chua đen. Được bổ sung bởi sắc thái của trà đen và hạt tiêu trắng.
Vị rượu có kết cấu dạng kem bao bọc lấy tông màu hấp dẫn của anh đào và sô cô la đen. Với độ tuổi lâu năm, thức uống sẽ trở nên mịn hơn.
Sự ra đời của rượu vang Mỹ Opus One
Rượu vang Mỹ Opus One là dòng vang Mỹ chỉ dành cho đại tiệc được sản xuất theo phong cách Bordeaux, pha trộn từ các giống nho khác nhau gồm Cabernet Sauvigon, Merlot, Cabernet Franc, Malbec và Petit Verdot.
Rượu vang huyền thoại “Opus One”được tạo ra từ nho California. Mang đậm chất “Pháp” của những loại rượu vang đỏ ngon nhất ở California. Các chuyên gia đã gọi “Opus One’s” là loại rượu ngon nhất trong lịch sử của California. Nó được đưa ra ánh sáng nhờ hai nhà sản xuất rượu vĩ đại của thế kỷ XX. Nhà sản xuất rượu Bordeaux nổi tiếng Baron Philippe de Rothschild và Robert Mondavi nổi tiếng. Đến từ California đã thực hiện dự án chung này.
Tên rượu đã được chọn để nó được viết trên cùng một nhãn bằng cả tiếng Pháp và tiếng Anh. Nam tước Rothschild gợi ý rằng từ tiếng Latinh cho “Opus” mà nhà soạn nhạc đã gọi các tác phẩm của mình. Robert Mondavi đã thêm vào cái tên này từ “Một”, có thể hiểu là “trải nghiệm đầu tiên”. Mà đúng hơn là “có một không hai”. Rượu vang phong cách Bordeaux thực sự là tác phẩm tráng lệ “duy nhất” và độc đáo của hai nhà làm rượu vĩ đại.
ROBERT MONDAVI – “Đối với tôi, rượu là niềm đam mê. Đó là gia đình và bạn bè. Đó là sự ấm áp của trái tim và sự hào phóng của tinh thần”
BARRON PHILIPPE DE ROTHSCHILD – “Rượu được sinh ra, rồi nó sống. Nhưng nó không bao giờ chết, trong con người nó sống tiếp”
Bảo quản và sử dụng rượu vang Mỹ Opus One 2017
“Opus One” được uống với các món ăn quý tộc, vịt và cừu. Nó cũng được uống chung với các món ăn đặc sản dành cho người sành ăn.
Nhiệt độ bảo quản và sử dụng lí tưởng từ 18 đến 20 độ C.
*Lưu ý: mở rượu tối thiểu 60 phút hoặc thở trong bình decanter 30 phút trước khi sử dụng để rượu đạt tối đa hương vị.
Vườn nho của Opus One
Các vườn nho bất động sản của Opus One bao gồm 4 lô đất, nằm ở phía tây của Oakville AVA nổi tiếng. Hai lô đất, tổng diện tích 100 mẫu Anh nằm trong Vườn nho To Kalon nổi tiếng. Những điều này được bổ sung bởi 70 mẫu Anh của các khu đất Ballestra và River kết hợp, bao bọc nhà máy rượu.
Trong các vườn nho, thu hoạch bằng tay và các phương pháp truyền thống khác được thực hiện ở bất cứ nơi nào chúng hoạt động tốt nhất. Khi các kỹ thuật hiện đại mang lại lợi ích cho quá trình trồng nho. Chúng được nghiên cứu, đánh giá và tích hợp vào thực tiễn.
Khám phá thung lũng Napa Valley, California – vùng rượu vang bậc nhất tại Mỹ
Rượu vang Napa Valley là loại vang nổi tiếng nhất ở Mỹ. Tuy nhiên, trước khi trở nên nổi tiếng như ngày nay thì thung lũng này đã có một thời kỳ phát triển không hề dễ dàng. Nhắc đến vang Napa Valley, người ta nghĩ ngay tới những dòng vang như Cabernet Sauvignon, Chardonnay, Merlot.
Bên cạnh đó, nơi đây còn có nhiều loại rượu vang Mỹ chất lượng với hương thơm tinh tế, quyến rũ. Hãy cùng Rượu Vang Wine Home đi tìm hiểu nền văn hóa rượu vang của thung lũng Napa Valley, California.
Những vườn nho đầu tiên ở California
Những cây nho châu Âu đầu tiên ở California được trồng vào cuối những năm 1700. Nhiều ghi chép lịch sử chỉ ra rằng năm 1683 mới là thời điểm mà những cây nho đầu tiên được trồng. Thế nhưng, những vườn nho này không có khả năng phát triển nên đã bị bỏ hoang. Vào năm 1779, một nhóm các nhà truyền giáo do cha Junipero Serra dẫn đầu đã trồng một số vườn nho để phục vụ cho các nhà truyền giáo.
Ban đầu, những cây nho được trồng dùng để sản xuất rượu vang phục vụ cho mục đích tôn giáo. Những vườn nho đầu tiên không trồng một giống nho nhất định mà là sự hỗn hợp của nhiều giống nho khác nhau. Do mục đích mà những giống nho này được gọi chung là nho truyền giáo. Bởi thực tế rằng nho được trồng bởi những người truyền giáo. Đến cuối năm 1800, sự ra đời của ngành công nghiệp rượu vang mới chính thức phát triển.
Có một nhóm nhỏ những người di cư từ châu Âu, Napa và Sonoma dưới thời Abraham Lincoln làm Tổng thống. Ông cũng là vị tổng thống đầu tiên mua và thưởng thức rượu vang của California.
Trước khi thung lũng Napa được biết đến là nơi sản xuất rượu vang chất lượng thì nhiều dòng vang của Mỹ đến từ New York, Virginia, Ohio và Missouri cũng rất nổi tiếng. Thực tế rằng, những vườn nho ở phía Nam California được trồng nhiều trước khi đến thung lũng Napa và phía Bắc California.
Theo nhiều ghi chép để lại, các giống nho châu Âu được trồng ở Los Angeles và Anaheim vào những năm 1830. Nhà máy rượu vang đầu tiên sản xuất rượu cho mục đích thương mại do Jean Louis Vignes thành lập vào năm 1833. Jean Louis Vignes đã nhanh chóng trở nên nổi tiếng và bắt kịp William Wolfskill người sở hữu 145 mẫu vườn nho ở Los Angeles và Nam California vào cuối những năm 1830.
Vào năm 1859, ngành công nghiệp rượu vang của Los Angeles được thúc đẩy mạnh mẽ hơn bao giờ hết khi thành phố ra quyết định không đánh thuế với những vùng đất chuyên để trồng nho. Phía đông Los Angeles, ở Rancho Cucamonga, không xa San Bernardino, những cây nho được trồng vào năm 1838. Santa Ana và các khu vực khác ở phía nam Los Angeles cũng bắt đầu có các vườn nho trong khu vực của họ.
Sự ra đời của thung lũng Napa
Lịch sử của Thung lũng Napa bắt đầu vào những năm 1850, khi Joseph Osborne bắt đầu trồng cây nho trên một khu đất rộng 1.800 mẫu Anh. Ông đã đặt tên cho khu đất đó là là Oak Knoll.
Khu đất đó đã bị chia cắt rất nhiều lần qua các thập kỷ. Thế nhưng, chính tại khu đất này, những vườn nho tốt nhất đã ra đời. Người ta cho rằng, phần lớn công lao trồng những cây nho đầu tiên ở Napa thuộc về George Calvert Yount. Vùng đất ông canh tác lần đầu tiên được chính phủ Mexico trao cho như một khoản trợ cấp. Lúc bấy giờ, California chưa được lên thành tiểu bang và vẫn là một phần của Mexico.
George Calvert Yount đã đến nơi đây vào năm 1836, bắt đầu trồng những vườn nho đầu tiên. Ngay sau đó, thị trấn này đã trở nên nổi tiếng và lấy tên là Yountville, theo tên của ông. Đến năm 1859, Samuel Brannan mua một khu đất rộng lớn hơn, nơi mà ông bắt đầu trồng nho và có tên Agua Caliente Ranch. Khu đất này có hơn 100 mẫu đất và được ông đặt một cái tên mới là Calistoga.
Trong khi George C. Yount là người đầu tiên trồng nho một cách nghiêm túc thì lịch sử thung lũng Napa lại được tạo ra bởi John Patchett. Ông là người được ghi công bởi không chỉ trồng nho, ông đã thành lập ra một nhà máy rượu chính thức đầu tiên ở thung lũng này. John Patchett bắt đầu trồng nho vào năm 1854 và sau đó 3 năm, vào năm 1857, ông chính thức bước vào sản xuất rượu vang. Ông xây dựng hầm rượu của mình vào năm 1859, chỉ 1 năm sau, rượu vang của ông được nhận đánh giá chính thức.
Đây có lẽ là đánh giá chính thức đầu tiên về bất kỳ loại rượu vang nào của California. Được đánh giá bởi Robert Parker, xuất bản trên “Tạp chí nông dân California” – California Farmer Magazine. Bài đánh giá cho thấy quan điểm: “Rượu vang trắng nhẹ, trong, rực rỡ và thực sự cao cấp. Bên cạnh đó, rượu vang đỏ của anh ấy cũng rất xuất sắc, chúng tôi cảm thấy đây là một dòng rượu vang tuyệt vời.”
Rượu vang đã trở nên phổ biến đến mức có một tạp chí rượu vang Second wine ra đời với tên The Pacific Wine and Spirit Review. Tuy nhiên vào lúc bấy giờ, ngành công nghiệp rượu vang của California vẫn còn non trẻ, khi Patchett sản xuất những niên vụ đầu tiên, họ còn chưa có máy ép nho. Họ đã phải dùng một chiếc máy ép rượu táo cũ, bởi thời điểm đó, đó là tất cả những gì mà họ có.
Trong những năm ngành công nghiệp rượu vang California hình thành và phát triển, những vườn nho Mission được biết đến đầu tiên. Không chỉ vậy, Zinfandel và Petite Sirah cũng được trồng rộng rãi cùng với vô số các giống nho khác của Pháp, Ý và Đức bao gồm: Grenache, Riesling, Malbec, Sauvignon Blanc, Sauvignon Vert, Hamburg, Semillon, Flame Tokay, Petit Verdot, Furmint, Pinot Noir, Gamay, Muscadelle, Cabernet Franc, Muscat, Carmenere và Cabernet Sauvignon.
Những người tiên phong thực thụ của rượu vang Napa Valley
Quận Sonoma nhiều diện tích hơn Napa và được thiên nhiên ưu đãi với nhiều loại thổ nhưỡng khác nhau, khí hậu mát mẻ hơn và cũng dễ dàng hơn trong việc giao thương. Chính vì thế, khu vực này phát triển sớm hơn thung lũng Napa.
Lịch sử rượu vang của Sonoma quan trọng và dễ nhớ. Một số nhà máy rượu vang đầu tiên cũng là nơi khởi đầu cho ngành công nghiệp rượu vang của California. Thật tuyệt vời bởi một vài nhà máy rượu vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.
Buena Vista là một nhà máy rượu vang ở Sonoma được thành lập vào năm 1857. Gundlach Bundschu, cũng ở Sonoma và được thành lập vào năm 1858. Đây là 2 điền trang chuyên sản xuất rượu vô cùng quan trọng ở California. Cũng có thể nói rằng Sonoma thực sự là nơi khai sinh chính thức của ngành công nghiệp rượu vang California. Anh em nhà nhà Korbel bắt đầu sản xuất rượu vang theo phong cách Champagne đầu tiên ở Sonoma trong những năm 1880.
Còn bên thung lũng Napa, lịch sử của khu vực này bắt đầu khi nhà máy rượu Charles Krug ở Napa được thành lập vào năm 1861. Muộn hơn so với những nhà máy đầu tiên ở Sonoma. Tiếp theo đó, nhiều nhà máy khác cũng nhanh chóng được thành lập. Jacob Schram thành lập Schramsberg vào năm 1862 và sự nổi tiếng nhanh kéo đến. Benjamin Harrison, Tổng thống thứ 23 của Hoa Kỳ đã phục vụ rượu vang của điền trang này tại Nhà Trắng trong các cuộc họp chính thức.
John Lewelling bắt đầu trồng nho ở Thung lũng Napa vào năm 1864. Tại núi Veeder, được lấy tên từ Peter Veeder cũng có những cây nho đầu tiên vào năm 1864 bởi thuyền trưởng Stalham Wing. Ông là người đã truyền cảm hứng cho việc đặt tên khu vực Wing Canyon.
John Steckler đã canh tác một phần của khu đất rộng khoảng 367 mẫu Anh với những cây nho chuyên để làm rượu vang. Hamilton Walker Crabb là người kế tiếp khu đất này vào năm 1868. Hamilton W Crabb đã mua 240 mẫu đất vẫn còn là đất nông nghiệp từ gia đình George Yount và đến nay, đã trở thành vườn nho To-Kalon nổi tiếng. Đây là một vùng đất tuyệt vời cho việc trồng nho. Sự pha trộn giữa độ dốc, độ cao với đất mùn, sỏi đá, đất sét. Chính điều này đã khiến To-Kalon là một trong những địa điểm trồng nho tốt nhất ở Napa.
năm 1872, Hamilton Crabb thành lập Hermosa Vineyards và cực kỳ thành công. Đến năm 1878, ông là một trong những chủ sở hữu nhiều đất trồng nho nhất ở thung lũng Napa. Chính nhờ sự thành công này mà đã có rất nhiều người đến với Napa và bắt đầu trồng nho.
Vườn nho Cedar Knoll được trồng vào những năm 1870. Chỉ trong vòng 1 thập kỷ từ năm 1880 – 1890, số lượng đồn điền trồng nho trong thung lũng đã tăng lên đáng kể. Từ 3500 mẫu Anh lên tới 18000 mẫu Anh, số lượng nhà máy rượu tổng cộng là 200.
Những hoạt động kinh doanh phần lớn diễn ra trong khu vực thị trấn, nay đã trở thành thành phố Napa. Thành phố ban đầu được phát triển bởi Nathan Coombs vào năm 1847. Đây là khoảng thời gian 2 năm trước khi California được công nhận là tiểu bang. Nathan Coombs là nguồn cảm hứng đằng sau việc đặt tên cho Coombsville.
Cùng với sự phát triển của ngành công nghiệp rượu vang, nhà máy rượu thương mại lớn đầu tiên được thành lập tại Napa vào năm 1872 với tên Uncle Sam Wine Cellars. Hầm rượu vang này có khả năng sản xuất và đóng chai lên đến 2.000.000 chai rượu. Đến năm 1880, quy mô đã tăng lên gấp đôi, đây là một con số cực khủng. Nhờ vị trí ngay trên bờ sống Napa nên việc vận chuyển, giao thương cũng trở nên dễ dàng hơn. Ngay sau đó, công ty rượu Napa Valley cũng chính thức được thành lập.
Vào năm 1881, Hamilton Crabb mua 119 mẫu Anh từ Eliza Yount với giá 100 đô la/ mẫu Anh, đánh dấu sự ra đời của vườn nho To-Kalon. Vào thời điểm đó, 100 đô la có giá trị rất lớn. Hamilton Crabb biết rõ vùng đất tuyệt vời này ngay từ khi anh ấy nhìn thấy nó. Một phần nhỏ khác của những vườn nho ban đầu do Hamilton Crabb trồng hiện đang thuộc sở hữu của gia đình Detert và Gia đình MacDonald.
30 mẫu cây nho ban đầu đó đã được Caroline Stelling bán cho Hedwig Detert vào năm 1954 với giá 650 đô la/mẫu Anh. Sau đó, khu vực này được đổi tên thành Detert Vineyard. Những năm 1950, vườn nho này được phân chia giữa Gunther Detert và Allen Horton, những người họ hàng của gia đình Detert.
Thửa đất thuộc về Allen Horton là nơi mà gia đình MacDonald cso quyền thừa kế một phần trong Vườn nho To-Kalon. Trong 30 năm, các vụ thu hoạch đều được bán cho Robert Mondavi. Điều này đã thay đổi vào năm 2010, khi gia đình bắt đầu sản xuất rượu vang của riêng họ bằng những trái nho mà họ dày công chăm sóc.
Những vườn nho thuộc sở hữu của Opus One và Robert Mondavi ngày nay từng do Hamilton Crabb canh tác. Năm 1886, Crabb đổi tên nhà máy rượu Hermosa của mình thành công ty rượu To-Kalon. Vào thời điểm đó, nhà máy là một trong những tên tuổi làm rượu vang nổi tiếng nhất ở thung lũng Napa, không ai là không biết đến. Công ty Rượu To-Kalon chuyên sản xuất rượu vang đỏ, rượu vang ngọt có nhãn là Sauternes, Port. Bên cạnh đó họ cũng có sản xuất rượu vang trắng và Brandy.
Vào thời kỳ đỉnh cao của mình, Hamilton Crabb the To-Kalon Vineyard đã có tới 650 mẫu cây nho với khả năng sản xuất khoảng 150.000 thùng rượu. Các vườn nho có nhiều giống nho khác nhau, phổ biến là Tannat, đây là loại nho được sử dụng nhiều ở Bordeaux ở thời điểm đó.
Thời điểm sau dịch bệnh
Do sự tàn phá của dịch phylloxera, Hamilton Crabb đã lụi tàn vào năm 1899. Cùng lúc đó, Thomas Rutherford đã chính thức có vườn nho của riêng mình. Nhờ vào đám cưới với cháu gái của George C Yount mà anh nhận được món quà cưới là khoảng 1.000 mẫu cây nho vào năm 1864.
Năm 1874, Nhà máy rượu Sunny St. Helena ra đời do Joseph Ghisletta xây dựng, sau đó đổi tên thành Merryvale. Khoảng 60 năm sau, Nhà máy rượu Sunny St. Helena vãn nắm giữ một phần quan trọng trong lịch sử rượu vang của Thung lũng Napa.
Sau đó, nhà máy rượu Beringer được thành lập vào năm 1875 bởi Jacob Beringer và Fredrick Beringer. Họ là những người trước đây đã làm việc cho Charles Krug. Nhà máy rượu Simi ra đời vào năm 1876. Inglenook ra đời vào năm 1879 và được thành lập bởi William C. Watson. Vào năm 1873, Gustave Niebaum đã mua điền trang này và biến nó thành một trong những nhà máy rượu nổi tiếng nhất.
Nhờ vào việc sản xuất ra những dòng rượu vang mang phong cách Bordeaux thực thụ mà Inglenook đã trở nên nổi tiếng. Không những vậy, dòng vang này còn giành được huy chương vang tại hội chợ thế giới được tổ chức tại Paris năm 1889. Rượu vang Inglenook được coi là thứ rượu tốt nhất của California. Trên những toa ăn hạng nhất ở tuyến đường sắt Thái Bình Dương của Canada, những dòng vang từ Inglenook được phục vụ. Vào thời điểm Gustave Niebaum qua đời năm 1908, ông sở hữu 300 mẫu đất trồng nho.
Nhà máy rượu Inglenook được mô phỏng theo lâu đài tốt nhất ở Bờ Trái của Bordeaux. Vào năm 1936, qua một cuộc hôn nhân, điền trang này đã được chuyển cho John Daniels. Công ty rượu Migliavacca, một nhà máy rượu Napa khác cũng giành được huy chương vàng tại hội chợ Paris năm đó. Beringer và Niebaum không phải là nhà máy rượu mới duy nhất vào những năm 1870, John Benson đã bắt đầu trồng nho trên khu vườn với tên Far Niente rộng 84 mẫu Anh. Cùng với đó là các đồn điền của nho Zinfandel, Chasselas và Sauvignon Vert.
Vào năm 1876, Morris Estee thành lập Hedgeside Vineyards, ngay gần Silverado Trail. Như vậy, Estee và Hedgeside là những nhà máy rượu đầu tiên trồng Cabernet Sauvignon ở Napa, sản xuất loại rượu được bán dưới dạng Claret. Các vườn nho cung cấp nho để làm rượu cho Hedgeside hiện đang thuộc sở hữu của Quail Ridge
Vào năm 1873, Charles Hopper trồng nho trong khu vườn tên vườn là Missouri Hopper và lô đất này được mua từ George Yount. Một phần của vườn nho ban đầu hiện đang được sử dụng để sản xuất rượu Ulysses, rượu Christian Moueix, cũng như một số loại rượu hàng đầu khác.